LƯỠI XÀ BÁCH

– Chất liệu: Sắt.
– Kích thước: Dài lưỡi 9cm, rộng lưỡi 3cm, dài chuôi 6cm.
– Kỹ thuật chế tác: Rèn.
– Niên đại: Thế kỷ XVI – XVII.
– Địa điểm và thời gian sưu tầm: Xã Đạ Đờn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng; năm 1995

Thông tin hiện vật

Lưỡi xà bách (một loại công cụ sử dụnggần giống như cuốc) được phát hiện tại di chỉ mộ táng Đạ Đờn,  năm 1995.Di chỉ này nằm trong một thung lũng bằng phẳng tại khu vực giáp ranh giữa xã Lộc Tân (huyện Bảo Lâm) và phường Lộc Tiến (thành phố Bảo Lộc) của tỉnh Lâm Đồng. Khu vực này được người dân phát hiện năm 1980 trong quá trình canh tác nương rẫy, đến năm 1983, di chỉ đã chính thức được tiến hành khai quật. Đây là một quần thể mộ táng của các cư dân bản địa Lâm Đồng được hình thành trong quá trình sinh sống lâu đời. Với tục “chia của cho người chết” các cư dân cổ nơi đây đã để lại cho hậu thế rất nhiều hiện vật có giá trị chứa đựng những quan niệm về triết lý nhân sinh của tộc người. Quá trình khai quật, các nhà khoa học đã làm xuất lộ hàng ngàn hiện vật với nhiều loại hình, chất liệu và kiểu dáng khác nhau.

Lưỡi xà bách được rèn bằng sắt, hình chữ nhật; phần đốc chuôi thẳng, nhọn được làm vuông góc với lưỡi (dùng để tra cán). Lưỡi rộng, sống lưng dày; rìa lưỡi mỏng và sắc.

Xà bách là công cụ lao động  phổ biến trong các họat động nông nghiệp, như xới đất, làm cỏ, của người dân tộc bản địa ở Lâm Đồng trước đây. Cán xà bách thường ngắn, lưỡi mỏng, thuận lợi trong việc làm sạch cỏ, xới gốc cây trồng, đặc biệt loại xà bách nhỏ này rất phù hợp với  những địa hình có đồi dốc cao.

Danh mục: ,