MỘ CHUM
– Chất liệu: Gốm.
– Kích thước: Cao 42,5cm, đường kính miêng 37cm, đường kính bụng 37,4cm, đường kính đáy 34,8cm.
– Kỹ thuật chế tác: Nung.
– Niên đại: Khoảng thế kỷ VIII – X.
– Địa điểm và thời gian sưu tầm:Xã Quảng Ngãi, huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng; năm 1998
Thông tin hiện vật:
Chum gốm (mộ chum) được phát hiện tại Gò 2D, thuộc quần thể di tích Quốc gia đặc biệt Cát Tiên (huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng), vào năm 1998. Di tích quốc gia đặc biệt Cát Tiên được phát hiện vào thập niên 80 của thế kỷ XX. Các điểm di tích được phân bố trên diện tích hàng chục hecta, phần lớn các là các phế tích, nằm ở khu vực tả ngạn sông Đồng Nai, nơi giáp ranh giữa 3 tỉnh Lâm Đồng, Đồng Nai và Bình Phước. Trải qua trên 30 năm nghiên cứu, với 9 lần khai quật chính thức và nhiều cuộc điều tra, thám sát, các nhà khoa học đã làm xuất lộ hàng chục phế tích, kiến trúc tôn giáo đền tháp và mộ tháp, thu về hàng ngàn hiện vật có giá trị lịch sử – văn hóa. Với quy mô đồ sộ như vậy, di tích Cát Tiên đã khẳng định được vai trò vô cùng quan trọng của một thánh địa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Ấn Độ giáo.
Chum gốm (mộ chum) được chế tác bằng loại gốm có độ nung thấp (sành gạch); bề mặt áo gốm màu vàng xẫm, xương gốm màu xám trắng nhạt. Chum gồm hai phần, có thể được lồng vào nhau. Tổng thể chum có dáng tròn đều, mép miệng vuốt phẳng cắt vuông góc. Phần miệng và chân có một gờ phẳng chạy đều quanh chum. Bụng chum hơi thắt dần, làm cho đường kính đáy và đường kính miệng gần tương đương nhau.
Mộ chum là hình thức dùng những chum hoặc vò bằng gốm đất nung để chôn nguyên thi thể người chết (hung táng), than tro hỏa táng hay cải táng di cốt. Cũng có thể, trong chum chỉ có đồ tùy táng mà không có di cốt hay than tro (mộ tượng trưng).