GÀ TIỀN MẶT ĐỎ

Gà tiền mặt đỏ có tên khoa học là Lophura Nycthemera, bộ Gà Galliformes, họ Trĩ Phasianidae, lớp (nhóm) Chim.

Gà tiền mặt đỏ sống tại rừng lá rộng thường xanh, bán thường xanh, rừng tre nứa, phân bố lên đến độ cao 1.400m. Đây là loài chim đặc hữu của miền Nam Đông Dương (Indochina). Loài chim này cũng phân bố ở các khu rừng khô thuộc miền Nam Việt Nam và Đông Campuchia.

Ở Việt Nam, Gà tiền mặt đỏ phân bố từ Bình Định đến Khánh Hòa, Đồng Nai, Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc, Lâm Đồng, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Phước, Đồng Nai.Thường gặp Gà tiền mặt đỏ ở rừng thường xanh ẩm, nguyên sinh, rừng hỗn giao (cây gỗ mọc xen tre, nứa, trúc…), ở độ cao dưới 1.200m.

Gà tiền mặt đỏ có cánh ngắn, mỏ và chân màu xám, mắt đen, lông màu đen nhạt dần về hai cánh và đuôi có những chấm màu xanh ngọc. Con trống trưởng thành, màu lông ở đầu không rõ, da trần quanh mặt màu đỏ. Bộ lông màu gụ thẫm, các sao màu lục biếc rất rõ. Đầu, cổ đốm trắng xám, họng màu trắng, phần dưới điểm nâu tối với chóp mút hung da bò. Cánh, bao cánh có vành sao rộng ở cuối màu violét. Bụng xám đen, lông bao đuôi và lông đuôi giữa không có điểm đen, mút lông đuôi có vạch nâu không đều và có màu vàng nhạt. Con trống non 1 năm tuổi có bộ lông giống cá thể trưởng thành, nhưng không có điểm đen thẫm, các sao ít sặc sỡ, lông đuôi ngắn, giò chỉ có một cựa. Con mái cựa nhỏ hơn con trống, các sao dạng 3 cánh nhỏ và tối hơn. Con non màu lông đen xỉn. Các cá thể đều có mỏ nâu sừng, mắt nâu, giò xám chì.

Gà tiền mặt đỏ sinh sản vào mùa Xuân – Hè. Vỏ trứng màu trắng ngà, kích thước 45 x 35mm, thời gian ấp 22 ngày. Mùa sinh sản thường nghe tiếng kêu kéo dài đặc trưng vào các thời gian khác nhau trong ngày. Ban ngày, chúng kiếm ăn ở mặt đất, ban đêm bay đậu trên cành cây để ngủ. Cũng như các loài chim khác trong họ Trĩ, Gà tiền mặt đỏ ăn các loại hạt, trái chín, côn trùng và giun đất. Khi gặp nguy hiểm, chúng chủ yếu chạy lủi hoặc bay từng quãng, ít khi bay lên cao và xa.