LỢN RỪNG

Lợn rừng có tên khoa học là Sus Scrofa, thuộc họ Lợn Suidae, bộ Ngón chẵn Artiodactyla.

Lợn rừng phân bố ở nhiều nước châu Âu, châu Á, Bắc Phi và Việt Nam. Riêng ở Việt Nam, lợn rừng có mặt khắp các tỉnh miền núi và trung du. Đây là loài duy nhất thuộc họ Lợn Suidae phân bố ở nước ta.

Lợn rừng nặng 40 – 200 kg, thân dài 1.350 – 1.500mm, đuôi dài 200 – 300mm. Thân ngắn, đầu lớn, ngực nở, phần mông nhỏ hơn phần đầu ngực. Bộ lông thô cứng, màu đen xám. Lông gáy dài, dày và rậm, khi bị kích thích, hàng lông này dựng lên trông con vật rất dữ tợn. Răng nanh thường phát triển to dài, chìa ra ngoài môi. Lợn con có nhiều sọc vàng chạy dọc thân.

Lợn rừng sống trong tất cả các dạng sinh cảnh, từ rừng thứ sinh, rừng thưa, ven các nương rẫy…, chỉ không sống trên núi đá. Chúng không có nơi ở cố định, thường sống theo đàn 5 – 20 con, kiếm ăn vào ban đêm (từ chập tối đến gần sáng), ban ngày nghỉ trong các bụi rậm, thích đằm mình trong các vũng nước. Mùa đông, lợn làm tổ để nằm. Lợn rừng là loài ăn tạp, thức ăn của chúng bao gồm các loại củ, quả giàu tinh bột, các loại quả cây rừng, măng tre nứa, chuối và nhiều động vật (nhái, ngoé, giun đất, ong, côn trùng…). Lợn rừng sinh sản quanh năm, mang thai khoảng 4 tháng, đẻ mỗi năm một hoặc hai lứa, mỗi lứa 7 – 12 con. Lợn mẹ làm tổ đẻ rất chu đáo. Lợn con đẻ sau 30 phút có thể đi lại bình thường, một tuần sau có thể đi theo mẹ và trưởng thành sinh dục sau 2 năm tuổi.

Số lượng Lợn rừng ở nước ta còn tương đối nhiều. Ngành lâm nghiệp cần quản lý và sử dụng tốt nguồn lâm sản này để tăng nguồn thu nhập kinh tế.